21/6/17

Thiên Cấm sơn - bút ký Phạm Nguyên Thạch

Trong “Gia Định thành thông chí”, mô tả về núi của Thất Sơn, Trịnh Hoài Đức viết: "Hang núi ngậm mây, suối cong nhả ngọc, lại có cây giáng hương… cầm thú béo mập. Phía đông có ruộng đồng bằng phẳng, phía tây có hồ nước. Người Việt và người Khmer cày cấy, chăn nuôi và câu cá, chài lưới quanh chân núi. Ngó xuống ao hồ, đứng trước đồng ruộng, giữa nổi núi cao, có trầm hương, bời lời, sa nhân… lại có suối nước ở trên lưng núi cuồn cuộn chảy". 

Có chăng ngọn núi đẹp có nhiều cây quý được ông miêu tả là ngọn núi Cấm? Chu vi 28.600 mét, với độ cao 716 mét, núi Cấm vượt lên trên hết các núi trong Thất Sơn. Núi có đến sáu đỉnh cao thấp khác nhau và nhiều tên gọi: Bạch Hổ Sơn (núi giống hình con cọp bị mây phủ trắng hay trên núi có con cọp trắng?), Thiên Cẩm Sơn (núi đẹp như gấm lụa của trời)… Không chỗ dựa lịch sử nhưng có người lý giải, Nguyễn Anh bị Tây Sơn đánh đại bại, chạy thoát thân lên ẩn lánh ở núi rồi cấm người lên, từ đó núi có tên núi Cấm hay Thiên Cấm Sơn!

Rừng núi Cấm là rừng tự nhiên thuộc rừng ẩm nhiệt đới, nhiều loại cây quý hiếm. Theo ông bà dân sống trên núi lâu năm, cây lớn hai ba người ôm không giáp, nhiều tầng lá chồng lên nhau, đi suốt ngày trên núi không thấy mặt trời. Phủ mặt đá, lá rụng dầy cả thước. Voi, rắn hổ mây, heo rừng… muông thú ken rừng nhóc núi. Cọp ở núi Cấm hiền lành như tu, còn cọp dữ thì quần tụ bên núi Bà Đội Om.

Thời thuộc Pháp, năm 1916 ở núi Cấm có cuộc khởi nghĩa lớn. Pháp cho rằng linh hồn cuộc khởi nghĩa do ông thầy núi Cấm quê ở Bến Tre. Ông có nhiều tên: Bảy Do, Mã Văn, Tư Khánh, Lê Văn Khánh, Cao Văn Long… người nhiều tỉnh đều biết mặt. Ông bị giặc bắt vào tháng 3/1917. Viên Chưởng lý tòa án binh Châu Đốc đã phải công nhận: "Một nhà sư uy tín, khôn khéo, sáng suốt, cương quyết, nơi nơi đều quen, người người đều mến..."

Tự bao giờ núi Cấm đã huyền bí với trùng trùng chuyện kể, tương truyền lung linh màu sắc. Người đi núi mỗi bước mỗi ngạc nhiên vì cấu tạo lạ lùng của tạo hóa dành cho đất đá. Cây thuốc xa gần như dồn về để hưởng thụ tinh hoa đất trời trên độ cao nên núi Cấm nhiều vô kể. Chúng mọc đơn lẻ có, mọc quấn quít cây rừng có, mọc chờm ngoài gộp cheo leo hay giấu mình trong hóc khuất chớn chở cũng có. Bên thuốc Bắc có vị thuốc gì bên núi Cấm có vị thuốc đó. Người tìm cây thuốc quen thuộc khắp núi, người hành hương thấm đậm với núi. Hỏi về núi, việc sẵn bụng, người nào cũng trôi chảy.

Núi Cấm có nhiều vồ, hầu hết tên các vồ đều mang ý nghĩa gắn liền với vóc dáng hay hiện tượng gắn bó với vồ đó. Vồ Bồ Hong mặt rộng khoảng 4 - 5 mét, cao nhất, ở tận chót núi hù hù gió. Vồ lớn nhưng người nói xưa kia gió thổi vồ nhúc nhích. Bồ hong đậu kín vồ, đậu kín cây rừng xung quanh… Mùa nắng đứng đây thấy biển Hà Tiên chấp chóa. Mùa mưa, mù sương bao phủ suốt ngày. Khoảng 16 giờ chiều hệt lập đông dưới đồng bằng.

Phía đông vồ Bồ Hong có vồ Ông Bướm, đá dựng gộp chỏi lên không. Thuở biên giới Việt - Miên rối ren, ông Bướm là tướng lãnh bên Khmer được Cố Quản Trần Văn Thành thu phục. Sau, ông lên núi tu. Chắc ông từng trú ngụ trong hang dưới vồ. Hang không sâu lắm. Trước hang, cây ổi cổ thụ  uốn lượn dáng kiểng…

Phía tây vồ Bồ Hong có vồ Đầu. Người nói vua Gia Long lập nhiều trạm binh trên núi, vồ đá được đặt trạm binh tiền phong canh gác, quan sát dưới đồng bằng gọi vồ Đầu. Người cho rằng, trên đường lên núi người ta gặp vồ ấy trước tiên nên gọi vồ Đầu.

Vồ Bà hay Hang Bà, trong hang có cục đá lớn. Không biết xuất xứ cục đá, cũng không biết nó có sự tích gì dính với  tên vồ không. Người đoán, chắc cũng bà nào oai danh nhưng hệ lụy cuộc đời sao đó lên vồ tu hoặc "Bà" là thê thiếp của Gia Long thời trốn chạy tới ở hang.

Vồ Thiên Tuế đất đá rộng mênh mông, không một loài cây nào mọc được trừ loại cây có lá nhỏ màu xanh, thân có vảy tên Thiên Tuế.

Đó là năm non - năm vồ - năm cái chỏm cao của núi Cấm, ông Nguyễn Văn Hầu ghi từ lâu lắm trong “Thất Sơn mầu nhiệm”. Sau nầy, núi Cấm vẫn vậy nhưng khi người ta vén hoang dã, vẹt bí ẩn đã phát hiện núi còn dẫy đầy vồ hay hang điện...

Đứng dưới đồng bằng, khoảng giữa đồi Nam Qui và xã An Hảo (Tà Đét) nhìn lên sẽ gặp vồ Chư Thần, còn gọi gò Tức Dồn hay gò Cây Nhum, loại cây như cây cau nhưng có gai. Vồ nhiều cây mây, nhiều cây loại thân leo. Đỉnh vồ có hai trũng đá sâu như giếng, nước quanh năm. Tương truyền, người đến vồ thường bị lạc đường hay lạc nhau tìm không ra, đạo sĩ ở vồ biết tàng hình. Mỹ chụp không ảnh nổ ình ình điếc tai nhưng rửa ra không có ảnh. Lắm việc lạ, người đặt vồ Chư Thần!

Lên núi đi một đỗi lại thấy vồ. Phía kia vồ Cây Quế hay điện Cây Quế. Xưa, điện có cây quế cổ thụ trước cửa, nhân đó người đặt tên điện. Vồ từng  có bắp trầm. Chắc người  khuất mặt khuất mày sai khiến, vồ mát rượi khi nơi khác đang nắng, nơi khác mát rượi thì vồ lại nắng, người Khmer gọi điện Ông Tà. Phía nầy vồ Pháo Binh, vồ đá thời chiến tranh quân đội Sài Gòn lấy làm sân đặt pháo...

Dưới vồ Bồ Hong có vồ đứng riêng mình, trông côi cút là vồ Mồ Côi! Dưới vồ Mồ Côi khoảng 15 mét, có hang miệng tiếp giáp tảng đá bằng phẳng, người Khmer gọi xa-hom-bà-chen. Tương truyền, hang chứa rất nhiều chén dĩa cổ xưa, nhà đám tiệc có thể mượn. Bình thường, chén dĩa ấy chẳng thấy, nhưng nếu ai thành tâm khẩn cầu rồi tránh đi một lúc, trở lại sẽ thấy đủ số chén dĩa muốn mượn nằm trên tảng đá. Do nhiều người mượn không trả nên giận, miệng hang tự đóng lại! Chuyện kể đã thấm vào tôi bóng dáng ngọn núi Cấm bồng bềnh trong cõi thực cõi hư.

Năm ấy, trong lần công tác dài ngày ở Tịnh Biên tôi quen được Dũng, người chôn nhau cắt rún dưới chân núi, gia đình có mấy công vườn cây ăn trái trên núi. Có "thổ địa" Dũng tôi thêm náo nức về ngọn núi đụng trời mây ấp ngọn đang trước mặt mình. Dũng nói:

- Đi cho đã thèm. Ba bốn ngày vẫn chưa hết núi Cấm!

Đường lên núi vừa dốc ngược vừa lởm chởm đá, hăm hở nhưng tôi không tránh khỏi đôi lúc lệch bệch. Dũng  giục giã vào ham thích của tôi:

- Lên chút nữa có suối, nước chảy trắng trời!

Quần tụ nhiều ngọn núi nên núi Cấm nhiều thung lũng, lò ảng. Mùa mưa, nước từ những nơi nầy theo các khe dồn về tám con suối của núi, có nơi mang theo khoáng chất trắng đục như sữa… Nước suối hiền, nơi nào cũng uống được. Suối Thanh Long nằm cặp đường lên núi. Suối  lớn, mùa khô nước vẫn róc rách. Mùa mưa, suối uốn khúc rồng qua các gộp đá, nhả nước ầm ào xuống vực. Ra các gộp đá vừa rộng vừa phẳng phía trên, người mặc sức vung vẫy với suối...

Vốc nước rửa mặt, nước suối lạnh mát  hào phóng cho tôi thêm sức bước. Dốc cao dốc thấp, tôi theo Dũng lên xuống, xuống lên qua từng vạt rừng véo von tiếng chim, bông Ré phực màu lửa ấm… Các  vườn cây ăn trái tiếp nối liên tục, hết vườn bơ đến vườn sầu riêng, vườn mít oằn sai… làm tôi rộn ràng, nhiều lúc chậm chân với cảm giác cây trái hương vườn bay vói theo níu lại.

Dũng hề hà cảm thông. Tôi mệt nghỉ, khỏe nhắc Dũng đi. Qua một nơi hoang rậm, tôi buột miệng:

- Có "ông dữ" nào xồ ra không đây?

Dũng nói:

- Nghe chuyện hồi xưa hồn vía ai cũng lên mây, nay tìm cọng lông "ông dữ" để làm thuốc cũng không có. Nói vậy, nhưng cũng nghe người gặp. Gặp cũng ở đâu xa xa.

Thật may mắn bất ngờ, núi Cấm đãi, buổi chiều đang đi bỗng Dũng ra dấu tôi ngừng lại:

- Anh muốn gặp thì có đó!

Dũng chỉ tay lên lưng chừng núi đang sẫm nắng. Tôi loáng thoáng nghe trên ấy tiếng eng éc của heo rừng… Chuyện thú rừng được dịp người hỏi kẻ đáp dài theo đường. Dũng rành rẽ từ gốc  tới ngọn. Khoảng năm 1978 có người tới vồ Đầu tìm cây thuốc trị bịnh gặp vỏ rắn hổ mây lột bỏ lại, thử tròng vào mình thấy rộng rinh! Hang Ông Hổ dưới vồ Bồ Hong khoảng 10 - 15 mét, "ông" chắc đổi chỗ trú, bây giờ hang không. Gần gốc cổ thụ ngoài Điện Kín cũng có hang sâu, tương truyền có bạch hổ ở…

Chỉ vồ Đá Dựng ngó trật ót, có gộp đá hình chiếc ghe nằm dưới chân, Dũng nói vồ sao tên vậy, vồ Đá Dựng. Chúng tôi đi như bò lên vồ. Thoát được cái dốc tưởng chẳng hề thấy độ nghiêng, mồ hôi đầm đìa nhưng tôi lại hả hê, tưởng đưa tay ra sẽ đụng trời kéo được mây vào mình! Hết nhìn trời lồng lộng tôi nhìn xuống bên nầy vồ, dưới kia sương mù nhẩn nha lẩn khuất mấy vườn cây, la lả trên mấy mái tranh… thung lũng đẹp như tranh thủy mặc!

Xuống vồ Đá Dựng, chúng tôi vào chiếc hang lớn với hai vách dang rộng, gộp đá dài khoảng 10 mét che bên trên. Hang giống động của Tề Thiên trong truyện “Tây du ký” nên dân gian gọi động Thủy Liêm. Từ gộp cao trên nóc động nước thấm đâu trong núi lạnh như  cắt chảy ào ào xuống mặt đá bên dưới hóa suối trườn mình ra cửa động. Lạnh của nước suối thành ấn tượng đậm với người, vậy là động thêm tên Suối Lạnh! Ai muốn "nhẹ mình cất cánh" cứ đi sâu vào động ngồi trên thềm đá hoặc ngồi hẳn xuống suối hay mạo hiểm hơn, lần vách leo lên tận nơi nước đang đổ xuống gội rửa "bụi trần". Phía ngoài động, thiên nhiên vô tình hay hữu ý dựng phiến đá khá lớn, dẹp, chắn ngang như bình phong tạo an tâm cho người phía trong!

Sẩm tối, ngang qua vườn dâu tằm ăn rập rờn gió, chúng tôi tới nhà Chín Lý, bạn Dũng. Đèn dầu lật phật, chủ khách quay quần bên mâm cháo gà, nhâm nhi với chút rượu đế mua ở quán bên chùa Phật Lớn. Thịt gà núi săn chắc, ngọt ; rượu làm câu chuyện về núi rừng trở nên đậm đà, rộng mở. Tôi ví Dũng như cuốn sách ghi chép đầy đủ về núi Cấm để tôi lật hết trang nầy đến trang khác, bây giờ ngồi với Chín Lý tôi thấy mình có thêm cuốn sách mới, sách dầy ghi núi Cấm thiên hình vạn trạng. Cuốn sách mở ra, mở ra…

Nằm hai bên vồ Đầu có điện mười ba tầng và điện chín tầng (điện Cửu phẩm). Hai điện giấu trong bụng mình những vỉa đá chen qua lại thành tầng, thành tên điện. Có hang nằm dưới vồ đá de ra hệt mái nhà, ai ăn rau tần vứt gốc hay trồng phía trước hang, rau thành rừng thành luôn tên hang, tên điện Rau Tần! Bên hông điện cây ngô đồng cổ thụ xòe tán rộng, cây như trổ đá mọc bởi gốc trùm hết  khe đá. Dân ở núi nói chim phượng hoàng rực rỡ, quý phái, chỉ đậu cây ngô đồng. Chim bay đâu, người tới điện chỉ thấy bông ngô đồng đỏ ấm vùng núi. Từ điện Rau Tần theo đường xuống khoảng 5 mét có điện Nhàn Vân. Từ điện Nhàn Vân xuống một đỗi nữa gặp Sân Tiên huyền bí với dấu chân lún mặt đá, người Khmer gọi Côn-nghét (chân con nít).

Cùng phía vồ Pháo Binh có hang bị cây rừng che kín, người đặt Điện Kín. Điện độc đáo với hang ăn xuống đất khá sâu tưởng cùn bỗng vọt lên không, người xuống bên nầy trổ qua bên kia được. Vào hang khoảng hai ba chục thước sẽ gặp nước. Mấy chục năm trước ở gần cuối hang có tấm vạt tre và nồi niêu bằng đất, chẳng biết của ai. Lúc chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, điện che chở an toàn cho một số dân Ba Chúc vào trốn giặc.

Chín Lý kể làm tôi thêm mê nét đẹp hoang sơ mà hùng vĩ của núi. Tôi thích thú, vỡ lẽ ít nhiều ẩn chứa thế lực vô hình của núi chưa dịp chạm vào khoa học. Mây mù thường xuyên vây phủ, rừng rậm  rạp thêm nổi mù mịt vồ đá, người đi cách nhau chỉ sải tay vẫn còn thấy chập chờn, huống chi kẻ bước người còn gắm ghé cảnh lạ sao không khỏi lạc nhau? Cũng từ hiện thực sương mây bàng bạc nầy, người có phép thần thông tàng hình hoặc bay lượn, Mỹ chụp không ảnh chỉ thấy một màu trắng xóa đã được giải mã hết sức giản đơn. Giản đơn như quy luật trời đất, núi nhiều đỉnh che mặt trời nên nơi đây bóng râm nơi kia bóng nắng!

Cùng đoàn anh em văn nghệ tôi đến thâm nhập thực tế Tịnh Biên, thật không gì khấp khởi bằng được thăm nơi ghé cũ. Lúc ở văn phòng Huyện ủy anh Cao Quang Liêm - Phó Bí thư huyện đã nói với đoàn về đổi thay của vùng đồi núi biên cương, núi Cấm là một trong những nơi mời gọi đầu tư, tôi lặng lẽ xúc động nhớ chuyện xưa…

Rời nhà Chín Lý, trưa hôm đó Dũng và tôi nghỉ chân trước hiên một nhà trên lưng núi. Vừa lúc ghé,  cũng vừa lúc một người râu tóc bạc phơ bận việc xuống chân núi xong trở lên nhà. Ông đã làm tôi phải sửng sốt như gặp tiền bối võ lâm công lực thâm hậu trong phim kiếm hiệp của Trung Quốc. Không vẻ gì mệt nhọc, ông ung dung mời trà. Trò chuyện, với giọng khỏe chắc ông cho biết trong xóm thiếu gì người lớn tuổi hơn mình, lên xuống núi hằng ngày như chim bay. Pha chút vui, tôi hỏi:

- Người ta nói nhiều người lên núi Cấm tu tiên để sống sướng như tiên. Chưa đắc quả thân xác cũng nhẹ, khỏe khoắn. Bác có tu?

Ông thật tình:

- Tui lên đây với vườn tược, ở với núi từ nhỏ!

 Nghe ông nói, tự dưng tôi liên hệ đến cái "từ nhỏ" rồi lớn lên của mình nơi cát bụi trộn khói xe mù mịt, phố chợ tù túng mà ngẩn ngơ… Núi Cấm là Đà Lạt ở đồng bằng, ai đó đã có so sánh chính xác bởi từ khoảng nửa núi Cấm trở lên sương và mây làm lụa mỏng phơ phất trên sườn núi, hơi mát mênh mang lan tỏa. Buổi trưa, lọc qua cây lá rừng, qua vườn tược, qua những giàn su rộng mênh mông, nắng gây mê người bởi sự đằm thắm, dịu dàng. Chắc không gì hớn hở hơn cho người quan tâm về thời tiết khi biết trái đất ấm dần, mùa hè ở đỉnh núi Cấm giảm 3 độ nóng so với nơi khác!

Tôi nhận ra người ở núi cứng cáp, nhựa sống bên trong vỏ tuổi già luân chuyển không ngừng. Ngoài người hành hương, người cột gút gởi điều chẳng lành còn có khách tham quan, tất cả đến núi Cấm không chỉ vì nơi ẩn chứa tâm linh, hay hang động thiên nhiên độc đáo mà còn vì bầu không khí thanh sạch, yên tĩnh.

Thuở ấy tôi đã bâng khuâng vì một núi Cấm đầy "lộc trời", nhưng trăm điều vấp với. Núi như kho tàng ngó đâu cũng gặp vồ điện chứa ăm ắp vật quý giữa hệ sinh thái tuyệt vời nhưng biết bao giờ Tịnh Biên đọc câu thần chú "Vừng ơi, mở cửa"? 

Đến núi Cấm lần nầy thật tình tôi chưa hề nghĩ đến việc Tịnh Biên mở cửa kho tàng lộ thiên nhưng đầy huyền bí, đầu tư  núi Cấm thành nơi đất lành chim đậu. Vậy mà Tịnh Biên đang có một hiện thực vô cùng phong phú. Những căn nhà xộc xệch mái nhốt bóng tối  để chứa su hay buôn bán lặt vặt ngày nào đã biến mất, Bến Su bung mình ra rộng thoáng. Đường từ đây vụt sáng, thênh thang chạy ngoặt sang bên phải cắt ngang đường bộ hành lên núi, tiếp nối vào đường kéo pháo cất lên ngọn núi xanh sẫm, phủ mây... 

Tôi không thể không nhìn con đường vắt trên sườn núi nổi bật giữa cây vườn cây rừng. Con đường của quân đội Sài Gòn  sử dụng, sau giải phóng chìm lút mình vào hoang dã, nay ló dạng lộ hình. Năm 2005, huyện Tịnh Biên tiến hành tu sửa, mặt rộng 6 mét, đường trải nhựa lên tới vồ Thiên Tuế, đưa khách lên tham quan chốn núi tiếp với trời bát ngát đang thực hiện những công trình hoành tráng. Khởi công từ tháng 3/2005, với kinh phí 8 tỷ đồng huyện Tịnh Biên đã hợp lý khi biến 6 ha đá lổn nhổn chông chênh nơi đây sụt xuống thành hồ Thủy Liêm. Hồ mênh mông in bóng mây lồng lộng nầy nay mai sẽ cung cấp nước cho 500 hộ dân trên núi ; nay mai sen sẽ nở khắp hồ để mùi hương thanh thoát lan khắp rừng, ngan ngát khắp núi.

Vòng quanh hồ, con đường lớn chạy giữa cảnh sắc gợi thơ mộng bởi "sơn thủy hữu tình", một bên hồ nước một bên núi đá. Nằm trên đường có chùa Vạn Linh uy nghiêm, 7 tầng ngọn bảo tháp cao 40 mét, mỗi tầng một tượng Phật cỡi mãnh thú cao 2 mét bằng đá Thanh Hóa được điêu khắc tinh xảo. Tượng Phật Di Lặc vời vợi trên không trung, cao nhất Đông Nam Á với 33,6 mét ; chân bệ tượng mỗi cạnh 30 mét, cao 6,6 mét  đã hoàn thành hai phần sau hơn hai năm với kinh phí  trên 5 tỷ đồng. Chùa Phật Lớn, một ngôi chùa có từ lâu cải tạo, mở rộng trong diện tích 2 hecta… Tất cả cho thấy sự tạo dựng bề thế nhưng hài hòa, không gây cho người cảm giác thiên nhiên bị thu hẹp, trái lại thấy thiên nhiên được tôn vinh hơn vì tạo dựng. Núi Cấm vẫn còn đó với hang động nguyên sinh đầy quyến rũ, khoe mình thêm nơi đầy sức hấp dẫn.

Bây giờ lượng khách đến với núi  tăng dần. Khách không chỉ  ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà còn nơi xa… Đường xe đưa khách chưa sử dụng được thì có xe nhỏ, xe Honda ôm. Cánh xe Honda ôm hoạt động liên tục, từ 9 giờ sáng đến 10 giờ đêm. Khách vừa hồi hộp cũng vừa thích thú mỗi khi lên xuống núi bởi các "tay lái lụa" thực tế chứng minh chưa xảy ra tai nạn lần nào! 

Sự hồi phục hứa hẹn ngồn ngộn sức sống của đường xe đã thôi thúc tôi thăm lại con đường bộ ngày trước dân sơn cước đã khai sơn… Đó là con đường có đoạn dài khoảng sáu bảy trăm mét như địa đạo do núi Cấm cao và độ dốc lớn nên nước từ các lò ảng, khe trên núi chảy mạnh xuống cánh đồng, bào sâu khoảng hai ba mét. Tôi từng lãng mạn bước chậm chạp giữa hai vách đất cao khỏi đầu người như thành quách, phía trên cây xòe tán thành mái lợp xanh, chim hót ríu ran ; thỉnh thoảng đứng lại vì một nhành hoa không tên sà xuống trước mặt lả mình thả hương vào gió.

Nay đoạn "địa đạo" đã rào bít, đường lên núi chỉ còn từ chân núi đi lên. Tôi muốn thả lòng thênh thang cùng chốn cũ nên nói  Thạnh, người lái xe của huyện ủy, đợi tôi ở quán ngoài chân núi.

Cảnh quan thay đổi làm tôi nửa muốn bước nửa muốn đứng nhìn. Thật mừng, con đường "khai sơn" đã vươn mình lột khỏi xác từng làm khổ ải người đi. Các nấc thang vá víu tạm bợ hay các bậc có từ đá núi nhô ra khó bám chân bất kể trời mưa trời nắng đã  được thay bằng những bậc xi măng ngang có tới khoảng 3 mét, đường thoai thoải dốc lên. Đó đây những trụ điện chờ trồng nằm rải rác theo đường như hứa hẹn gần kề về một trái núi sáng rực!

Ngày trước, xa xa bên đường mới có một quán cóc. Hầu hết quán cất tạm bợ như chòi, treo vui lủng lẳng vài giò Thạch Học hay lan lưỡi kiếm gỡ trên cổ thụ núi Cấm. Mặt hàng chủ yếu để bán có  gậy cho người leo núi, một ít trái cây đơn lẻ hái từ vườn nhà. Trước tôi đến, ba cô gái nghe đâu ở ngoài tỉnh bị tình phụ, buồn lên đây không tu nhưng lập quán. Quán không tên, dân sơn cước đặt quán Ba Cô. Thêm quán Ba Cô vào nhưng quán vẫn thưa thớt, rỗng rễu. Các quán nối nhau bởi vườn cây ăn trái hay bìa rừng chạy dài dằng dặc theo đường làm người chơi núi dễ nhập lòng vào màu xanh bao la của thiên nhiên, cuộc sống. Bây giờ có lẽ là thời thạnh trị của quán xá khi núi Cấm được Tịnh Biên đánh thức, từ kho tàng quý giá ấy bước ra nhiều cô công chúa đẹp mỉm cười với mọi người.

Trên núi, hàng quán bên chùa Phật Lớn có trước, hàng quán bên vồ Bồ Hong có sau, quay đi ngoảnh lại thấy quán xá lô xô. Nơi đây, hàng quán như ào ra chào đón khách. Quán bán đủ thứ hàng, từ vật dụng nhỏ để khách mua làm kỷ niệm đến cây thuốc được chặt gọn cột thành bó để lủ khủ ngày nầy sang ngày khác. Bánh xèo được khai thác nhiều nhất, các quán liền vách kéo dài… Quán nào cũng bày trước cửa rổ rau sạch hái từ đọt cây lá rừng núi Cấm mơn mởn tươi non, gợi chân khách dừng.

Biết ở đâu có thắng cảnh, có lễ hội ở đó có hàng quán xáp vào, ở đây cũng việc tất nhiên. Quán nhiều, giá cả chênh lệch hệt như năm tôi tới núi, giá "trên mây" nơi chùa Phật Lớn hay ở vồ Bồ Hong chỉ hơn dưới đồng bằng một ngàn đồng. Biết không giấu lưỡi lam trong giá cả, hàng quán tạo điều kiện để khách đến nhưng tôi vẫn mơ hồ chút gì đó vương vướng, hiu hiu  theo mình.

Tôi vụt hiểu, hóa ra tôi có cảm giác vương vướng vì chân mình bước khá lâu vẫn chưa ra khỏi màu âm âm của con đường. Màu âm âm vì cái bóng, cái che chắn của quán xá! Niềm vui lúc nãy giờ biến thành nỗi thiếu hụt, tôi cứ tiếc cái phóng khoáng, nhớ sự trơ trụi đầy nắng gió của con đường thời cũ. Vật đổi sao dời, hầu như nơi đây bị xóa lấp hết vì quán xá. Chỗ cây bằng lăng năm đó tôi lên dốc mệt ngồi nghỉ dưới gốc, tình cờ ngó lên mê mùa bông trắng tím nở rộ cây, bây giờ cũng quán. Cứ cho mình nhớ lầm chỗ cho cho đỡ hắt hiu, tôi đi thêm đỗi nữa.

Tôi muốn reo  to khi dãy quán bên đường vụ hiện khoảng trống vì lý do gì đó chưa cất quán. Không cách gì gượng nổi, tôi hút mặt vào khoảng trống và kiếm tìm. Ở đó không hề có cây bằng lăng nào nhưng tôi như  vẫn thấy mình như người chịu hàm ơn, đội ơn ai đó dẫu vô tình, cho tôi có giây phút tận mắt với chút màu xám của đá, chút màu xanh của rừng mới trồng sau năm 1986 đang khép rậm tán phủ dấu vết thảm thương do đá lăn đá lở, nguyên nhân từ việc phá rừng bừa bãi những năm sau 1975!

Quay xuống núi, tôi lại sụp vào cảnh cũ, lại vương vướng… Công trình tạo dựng đồ sộ của Tịnh Biên gần xong, chỉ nhìn cái gần xong ấy người ta hình dung và ai cũng hài lòng, khẳng định tổng thể của tạo dựng một vùng sinh thái, an dưỡng đã giữ được sự hòa hợp với thiên nhiên vừa đẹp vừa kỳ bí và thanh khiết ở núi Cấm. Chắc chắn tương lai khách đến với núi đông đảo hơn nữa vì sự hòa hợp tuyệt vời ấy. Tôi nói điều nghĩ ngợi nầy với Thạnh. Chắc đoán được tôi ngầm ý về hàng quán, Thạnh nói:

- Quán xá trên vồ Bồ Hong và chùa Phật Lớn đã nhận bồi hoàn xong, chờ giải tỏa chú à!  

Nghe Thạnh nói nhẹ lòng nhưng chẳng hiểu sao tôi lại ngoái nhìn ngọn núi huyền bí có "suối cong nhả ngọc", nay mai rực rỡ với khu du lịch sinh thái, hành hương và an dưỡng hấp dẫn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long.

Đó cảnh cũ của núi Cấm những năm 2007. Bốn năm rồi tôi không trở lại núi nầy, chẳng biết bạy giờ ngọn núi ấy có thay đổi gì không. Năm ấy, nhìn núi tôi có hoài cựu hay lãng mạn hoặc khắt khe quá không trước chút đời rừng chút đời núi bị khuất vì quán xá tự phát ở một đường lên núi?  

 

Long Xuyên, mùa xuân 2011

PHẠM NGUYÊN THẠCH


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét