Hằng năm, vào dịp tết Dolta của
người Khmer ở An Giang, nhiều sinh hoạt văn hóa thể thao diễn ra phục vụ đồng
bào vui tết, trong đó có Lễ hội đua bò Bảy Núi được hai huyện Tịnh Biên và Tri
Tôn luân phiên tổ chức rất hào hứng, sôi nổi suốt nhiều năm qua. Thất Sơn
là vùng núi đồi hiếm hoi giữa đồng bằng bao la bát ngát của tỉnh An Giang.
Gọi là Thất Sơn, thực ra không chỉ có bảy ngọn núi theo truyền
tụng là: Thiên Cấm Sơn (núi Cấm), Ngoạ Long Sơn (núi Dài), Ngũ Hồ Sơn (núi Dài
Năm Giếng), Anh Vũ Sơn (núi Két), Liên Hoa Sơn (núi Tượng), Phụng Hoàng Sơn
(núi Cô Tô), Thuỷ Đài Sơn (núi Nước) mà còn hàng chục ngọn núi hoành tráng khác
cũng sừng sững không kém như: Trà Sư, Bà Đội Om, Tà Bạ, Nam Di, Phú Cường… Thất
Sơn nằm trải dài trên hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Đây là vùng đất cao không
bị ngập trong mùa nước nổi và có người dân tộc Khmer sinh sống khá đông. Người
dân ở đây hằng năm trồng lúa cấy, gọi là ruộng trên, cho ra loại lúa Sóc rất
thơm ngon và trở thành đặc sản của vùng Bảy Núi. Chẳng những du khách phương xa
đến Tịnh Biên, Tri Tôn lùng mua loại gạo nầy mà ngay các huyện lân cận sống giữa
đồng lúa phì nhiêu bạt ngàn vẫn thích ăn gạo lúa Sóc của người Khmer.
Hằng trăm năm qua, từ khi ông
Phan Văn Vàng tìm được giống lúa sạ, nông dân An Giang khẩn hoang gieo trồng tạo
thành những cánh đồng lúa mênh mông trên đất phù sa. Đặc tính của lúa sạ là
theo nước rất giỏi và sống bền bỉ. Nước nổi dâng cao đến đâu lúa sạ vươn theo đến
đó. Thậm chí vào mùa mưa bão nước lên nhanh vượt qua đầu, ít hôm sau nước đưng
lại lúa sạ vẫn phơi phới vượt lên. Khi dân số tăng cao và nông nghiệp phát triển,
người ta xẻ kinh, đấp đê bao ngăn nước để chuyển lúa sạ qua giống lúa ngắn ngày
sản xuất mỗi năm hai hoặc ba vụ với năng suất cao hơn nhiều lần và cho sản lượng
lúa lớn hơn cũng cùng một diện tích ấy. Lúa sạ dần bị mai một nhưng ở ruộng
trên của vùng Bảy Núi người dân tộc Khmer vẫn giữ giống lúa cấy truyền thống.
Người Khmer Bảy Núi sống theo
phum sóc quanh chân núi. Có nơi sống xen kẽ với người Kinh. Hầu hết người Khmer
đều làm ruộng và bò là động vật cày kéo nên được nuôi nấng, chăm sóc rất kỹ. Tập
quán của người Khmer trong sản xuất nông nghiệp là vần đổi công. Tới mùa vụ, những
đôi bò trong xóm tập trung cày, bừa cho đất của nhà nầy xong kéo sang đất của
nhà khác nên rất đông vui và có cảm giác công việc hoàn thành nhanh hơn. Hình ảnh
hàng chục đôi bò cùng cày trên một cánh đồng dưới chân núi đã giúp cho những
nhà sáng tác tạo nên nhiều bức ảnh nghệ thuật đặc sắc.
Trong bối cảnh nhộn nhịp ấy, có
những chiều bừa ruộng xong sớm, một số chủ bò cao hứng rủ nhau bắt cặp đua
chơi. Để chứng tỏ đôi bò của mình khoẻ, ai cũng muốn giành chiến thắng. Nhưng
khi vào đua rồi mới biết, bò khoẻ chưa đủ, còn tài nghệ của người điều khiển
sao cho đôi bò nhịp nhàng tăng tốc. Đua chơi nhưng từ từ trở thành một môn nghệ
thuật hấp dẫn và không bao lâu sau lan rộng ra các phum sóc khác. Rồi đôi bò vô
địch phum sóc nầy không còn đối thủ, phải thi đấu với những đôi bò của phum sóc
khác. Đó là vào mùa mưa cày bừa để gieo cấy, đua trên ruộng nước xâm xấp. Đến
khi lúa chín, vào mùa gặt, dùng bò kéo xe chở lúa họ cũng rủ đua. Đua bò kéo xe
phải chạy trên đường làng. Mới đầu chỉ có vài đôi ngẫu hứng đua chơi, dần dần
phổ biến ngày càng đông nên kéo xe bánh lớn bất tiện, người ta đổi xe bánh nhỏ
chở một hai người ngồi vì đường làng chật hẹp. Đôi bò chạy sau nếu không vượt
qua được đôi bò trước thì chỉ cần đạp lên xe của đôi bò trước là thắng cuộc. Có
con lỡ đà té nhào vào thùng xe của đôi trước làm cả hai xe bị lật xuống ruộng.
Hình thức đua nầy khá nguy hiểm nên không được duy trì. Người ta thích đua bò
kéo bừa trên ruộng nước hoặc trên đường cát, an toàn hơn.
Người Khmer theo đạo Phật tiểu thừa
và ngôi chùa là nơi thiêng liêng, sinh hoạt tinh thần của mọi người. Hằng năm
các đôi bò trong phum sóc đều kéo nhau đến cày bừa thí công cho đất của chùa.
Và sau những buổi cày bừa các đôi bò lại rủ nhau đua. Sư Cả chùa và Tà À cha thấy
vậy đứng ra tổ chức và treo giải thưởng là những sợi dây nài khớp bạc hoặc những
vòng lục lạc đẹp mắt. Từ đó đua bò trở thành tập quán của người Khmer Bảy Núi
vào dịp tết Dolta hằng năm, khoảng cuối tháng tám đầu tháng chín âm lịch.
Năm 1992, chính quyền hai huyện
vùng Bảy Núi là Tịnh Biên và Tri Tôn nhận thấy đua bò là một hoạt động văn hoá
thể thao độc đáo của người dân tộc Khmer đã nhiều năm góp phần phong phú, sinh
động cùng với nhiều hoạt động nghệ thuật khác trong dịp tết Dolta. Hai huyện đã
đứng ra liên kết tổ chức thành Lễ hội đua bò truyền thống hằng năm để đồng bào
dân tộc được vui chơi, thưởng ngoạn và rèn luyện thể lực, thi đua chọn bò khoẻ,
bò hay phục vụ nền sản xuất nông nghiệp năng suất cao. Lễ hội được hai huyện
luân phiên nhau tổ chức, trao giải thưởng. Các ngành chức năng của huyện tham
gia Ban tổ chức và cuộc đua có điều lệ, qui định rõ ràng. Đến nay, Lễ hội đua
bò Bảy Núi đã tổ chức được 15 lần và lần thứ 16 năm 2007 tới phiên huyện Tịnh
Biên đăng cai. Mỗi huyện đã xây dựng một sân đua cố định đúng tiêu cuẩn. Tri
Tôn là sân gần chùa Tà Miệt ở xã Lương Phi và Tịnh Biên là sân gần chùa Thơ Mít
ở xã Vĩnh Trung.
*
Sân đua bò là một thửa ruộng hình
chữ nhật xâm xấp nước, dài từ 150 đến 160 mét, ngang từ 70 đến 80 mét, chung
quanh có đê cao một mét bao bọc cũng là nơi để khán giả đứng xem và cổ vũ. Cuối
sân có một cửa trống để bò đến đích có lối thoát ra ngoài. Tham dự Lễ hội đua
bò Bảy Núi hằng năm có trên dưới 40 đôi bò vào vòng chung kết được tuyển chọn từ
các cuộc đua vòng loại ở cấp xã, thị trấn. Trước kia huyện đăng cai được 20
đôi, huyện còn lại 18 đôi; gần đây mở rộng cho huyện lân cận 5 đôi nữa, nâng tổng
số lên 43 đôi. Các đôi bò thi đấu từng cặp ngẫu nhiên do bốc thăm và loại trực
tiếp, cuối cùng tranh 8 giải gồm nhất, nhì, ba, tư và 4 giải khuyến khích.
Khoảng 7 giờ 30 phút sáng, các
đôi bò mang bừa có gắn mã số cùng với người điều khiển gọi là tài xế tập trung
trước khán đài làm lễ khai mạc, sau đó có 20 phút cho các đôi bò đi tác (khởi động).
Tài xế tuổi từ 20 đến 50, sức khoẻ tốt và có kinh nghiệm điều khiển bò. Tài xế
đóng vai trò rất quan trọng trong việc thành bại vì luật đua qui định các đôi
bò đều chạy hai vòng hô (chạy chậm), sau đó chuyển sang vòng thả (chạy nhanh)
trên đoạn đường quyết định 100 mét (hoặc 120 mét tuỳ theo sân). Đôi nào vượt
lên về đích trước sẽ thắng cuộc với điều kiện không chạy ra khỏi đường đua rộng
8 mét. Trường hợp vào vòng thả, cách điểm xuất phát 30 mét (có sân qui định 20
mét) trở lên nếu đôi sau đạp lên cây bừa của đôi trước được công nhận thắng cuộc
không cần phải đến đích. Vòng thả rất sôi nổi và hào hứng, hai đôi bò vùng lên
chạy quyết liệt, nước bắn tung toé trong sự cổ vũ của khoảng 20 ngàn khán giả
trên sân. Tài xế phải gan dạ, bình tĩnh, khéo léo chích gậy cho bò chạy hết tốc
độ mà không phạm luật, tức là không lệch ra ngoài đường đua và mình vẫn đứng vững
trên thanh bừa. Nhiều trường hợp khi bò phi nước đại tài xế bị té rớt xuống đường
đua rất dễ bị đôi sau dẫm đạp lên hết sức nguy hiểm. Nhưng từ trước đến nay
chưa có tài xế nào té bị trọng thương, dường như phản xạ của bò cũng rất nhanh,
khi thấy người té là nhảy tránh ngay.
Qua 15 lần tổ chức Lễ hội đua bò
Bảy Núi, có những đôi bò đoạt giải cao như bò của ông Chau Chiu ở xã Núi Tô huyện
Tri Tôn, một lần giải nhất, hai lần giải nhì và ba lần giải ba. Đặc biệt, đôi
bò của cha con ông Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Văn Bi ở xã An Hảo huyện Tịnh Biên bốn
lần giải nhất, hai lần giải nhì và một lần giải ba.
Một buổi sáng mưa vừa dứt hạt,
tôi và anh Cao Quang Liêm, Phó bí thư thường trực huyện uỷ; anh Nguyễn Văn
Kinh, Trưởng đài phát thanh huyện Tịnh Biên về ấp Tà Lọt, xã An Hảo để tìm chú
Nguyễn Văn Tấn. Gặp chú ở văn phòng ấp và thật thú vị khi biết chú hiện là Trưởng
ấp Tà Lọt. Chú mê chơi bò từ năm 20 tuổi và đến nay đã 66 tuổi vẫn chưa thôi.
Ba người con trai của chú là Nguyễn Văn Bi, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Đồng đều
mê bò như cha. Riêng anh Nguyễn Văn Bi, người con thứ ba của chú Tấn đã 38 tuổi,
được cha huấn luyện từ năm 11 tuổi, nay là tài xế cự phách của vùng Bảy Núi, điều
khiển bò nhiều lần đoạt giải.
Chú Nguyễn Văn Tấn chào đời tại
xã Xuân Tô, nay phần đất nầy tách qua xã An Phú, giáp với biên giới Kampuchia.
Năm 1978, chú dời nhà về ấp Tà Lọt xã An Hảo và được bầu làm Trưởng ấp từ năm
1999 đến nay. Ngươi không vạm vỡ, trái lại còn hơi gầy guộc nhưng nhanh lẹ, là
con nhà nông nên cuộc đời chú gắn liền với đất và những đôi bò phục vụ cày kéo
trong sản xuất. Từ khi vùng Bảy Núi có lệ đua bò dù là tự phát, các chủ bò rủ
rê nhau đua chơi trong các mùa cày mùa gặt, chú đã cảm thấy “khoái” cái thú đua
bò và đam mê từ lúc còn trai tráng. Khi lập gia đình, chú may mắn gặp người vợ ủng
hộ chú hết mình. Có khi thấy chú cưng bò quá, như mua dừa tươi, hột gà, nước thốt
lốt tẩm bổ cho bò; dẫn bò đi tắm kỳ cọ từng chút lấy khăn sạch lau khô, thiếm vờ
trách chú cưng bò còn hơn cưng vợ! Chú nói vui: “ Bỏ vợ thì được chớ bỏ bò
không được”. Thiếm chỉ còn nước cười trừ. Kinh nghiệm cho chú biết cách lựa bò
chạy nhanh, dẻo dai là những con mình gân, chân cao, dáng dỏng dảnh. Cách điều
khiển cũng được chú tập luyện thuần thục để giữa bò và người hiểu ý nhau lúc
nào chạy chậm, lúc nào vọt nhanh, lúc nào đạp bừa đôi trước, cách bám đường đua
và nghệ thuật chặt cua vẫn giữ tốc độ mà không bị tạt ra ngoài. Khi tuổi đã
cao, chú giao nhiệm vụ tài xế lại cho người con trai đầu là Nguyễn Văn Bi. Sức
trẻ cùng với sự đam mê và kinh nghiệm do cha truyền lại, anh Bi là người kế thừa
xứng đáng khi liên tục điều khiển bò giật giải quán quân những năm gần đây.
Chú Tấn cho biết tham gia đua bò
vì vui là chính chớ không vì lợi nhuận. Chăm sóc bò đua cực khổ lắm, trước khi
đua một tháng phải tập dợt liên tục. Mặc dù khi đôi bò đua thắng cuộc, từ giá
năm, bảy triệu một con liền tăng lên gấp đôi, hay như đôi bò của chú hiện nay
người ta trả ba mươi triệu nhưng chú chưa bán. Đam mê và cao thượng là đức tính
của người nông dân tham gia đua bò, đã góp phần sinh động, hứng thú cho Lễ hội
đua bò Bảy Núi và mang lại không khí tưng bừng, náo nhiệt trong ngày tết Dolta
của người dân tộc Khmer. Tuy có năm anh Nguyễn Văn Bi bị một số chủ bò khác triệt
hạ bằng cách kiếm chuyện gây gỗ sinh ra ấu đả bị thương phải bỏ cuộc, nhưng sự
cố nầy rất hiếm xảy ra. Mất tài xế hay và quen thuộc, đôi bò không còn phát huy
tác dụng và tất nhiên không đoạt giải cao. Người điều khiển bò được gọi là tài
xế vì ngày xưa người ta đua bò kéo xe, bây giờ đua bò kéo bừa mà vẫn gọi là tài
xế thì không ổn. Nhưng gọi là gì cho đúng hơn? Xin những ai mê đua bò góp ý…
TRỊNH BỬU HOÀI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét